Công tác ứng dụng CNTT của ngành Y tế có nhiều chuyển biến tích cực. Đến nay, tất cả các bệnh viện trên địa bàn tỉnh đều được trang bị hệ thống máy tính có kết nối mạng LAN nội bộ để trao đổi, lưu trữ thông tin, dữ liệu. Các trang thiết bị khác như máy chiếu, hệ thống phần mềm chuyên dụng… cũng được đưa vào sử dụng. Công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đảm bảo cho việc ứng dụng CNTT đạt hiệu quả cao ngày càng được chú trọng. Một số bệnh viện thành lập phòng chuyên môn độc lập đảm nhiệm nhiệm vụ ứng dụng CNTT vào KCB và quản lý bệnh viện, điển hình như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Đa khoa khu vực Phúc Yên… Hàng năm, bên cạnh nguồn kinh phí chi cho công tác chuyên môn, các bệnh viện đều có dự toán ngân sách phục vụ công tác mua sắm trang thiết bị và đẩy mạnh ứng dụng CNTT tại đơn vị.
Việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của các đơn vị y tế ngày càng phát huy tác dụng rõ rệt. Tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh, việc ứng dụng CNTT có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm giảm áp lực hành chính đối với các y, bác sỹ. Bác sỹ Lê Hồng Trung, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh cho biết: "Từ nhiều năm nay, bệnh viện đưa vào sử dụng phần mềm quản lý bệnh viện với các ứng dụng cụ thể như: Phân hệ xếp số tự động; tiếp nhận thông tin bệnh nhân; quản lý cận lâm sàng và lâm sàng cho người bệnh; quản lý thanh toán viện phí và bảo hiểm y tế; … Với phần mềm này, quy trình KCB và điều trị cho bệnh nhân được thực hiện khép kín, thuận tiện cho người sử dụng, giảm thời gian chờ đợi cho người bệnh, từ đó, tăng năng suất và hiệu quả KCB. Ứng dụng phân hệ xếp số tự động cho phép bệnh viện cung cấp số thứ tự cho người khám bệnh một cách khách quan, giúp phân luồng bệnh nhân khám theo các hình thức khác nhau như: Khám bảo hiểm y tế, khám dịch vụ… Tại phòng khám cận lâm sàng, khi đăng nhập vào chương trình, các bác sỹ có sẵn danh sách bệnh nhân chờ làm các xét nghiệm, kỹ thuật cần thiết... Cùng với đó, phần mềm quản lý bệnh viện cũng giúp Ban Giám đốc bệnh viện quản lý được tần suất sử dụng máy móc, trang thiết bị của các khoa, phòng, tránh tình trạng bác sỹ, nhân viên làm các dịch vụ cho người bệnh có thu phí mà không kê khai, báo cáo…". Bệnh viện Đa khoa tỉnh còn tích cực thực hiện hội chẩn trực tuyến qua mạng Internet; đồng thời, thường xuyên tập huấn về CNTT cho đội ngũ cán bộ, y bác sỹ.
Tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Phúc Yên, hiện nay, đơn vị áp dụng hệ thống phần mềm quản lý văn bản, hệ thống thư công vụ chung của tỉnh để thường xuyên nhận và gửi thông tin lên cấp trên và các ban, ngành trong tỉnh; sử dụng hệ thống email riêng nhận thông tin từ các đơn vị khác, tiếp nhận phản ánh của người bệnh về thái độ, chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ, y bác sỹ. Trong công tác quản lý, bệnh viện sử dụng phần mềm kế toán Misa; phần mềm quản lý xuất, nhập các loại vật tư, dược liệu; phần mềm thống kê bảo hiểm để lưu trữ thông tin bệnh nhân; phát triển công cụ thống kê cho khoa huyết học. Bệnh viện chủ động xây dựng và phát triển một số phần mềm khác phục vụ công tác chuyên môn như: Phần mềm quản lý thông tin của bệnh nhân nội trú và ngoại trú tại các khoa và phòng khám. Nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả của công tác ứng dụng CNTT, thời gian qua, bệnh viện chú trọng đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn nhân lực cho hoạt động này. Hiện nay, toàn bệnh viện có 127 máy tính, 92 máy in, 4 đường truyền Internet, 19 đường truyền hình cáp, 39 đường điện thoại... Vừa qua, bệnh viện xây dựng phòng Công nghệ thông tin chuyên biệt với 6 kỹ sư đảm nhiệm.
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, tuy nhiên, Trung tâm Y tế huyện Vĩnh Tường cũng đã chú trọng thực hiện ứng dụng CNTT vào công tác quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động chuyên môn. Cùng với những phần mềm thiết yếu phục vụ việc khai thác thông tin, thống kê, báo cáo và lưu trữ, nhiều phần mềm thiết thực khác cũng đã được đưa vào sử dụng như: Phần mềm KCB ngoại trú, phần mềm KCB bảo hiểm y tế; phần mềm quản lý dược; hệ thống phát số tự động tại tất các phòng bệnh, đến nay, trung tâm trang bị hệ thống camera quan sát qua mạng để đảm bảo an ninh trật tự và quản lý mọi hoạt động.
Có thể thấy, việc ứng dụng CNTT gắn với công tác cải cách hành chính của các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh góp phần làm giảm áp lực về hồ sơ bệnh án, lưu trữ thông tin báo cáo; giảm thời gian chờ đợi, tạo thuận lợi cho bệnh nhân, nâng cao hiệu quả KCB, tránh chồng chéo trong cấp phát thuốc; tăng hiệu quả, hiệu lực cho công tác quản lý; đảm bảo tính khách quan, công bằng, tăng tỷ lệ hài lòng cho người bệnh khi sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc ứng dụng CNTT tại các bệnh viện còn một số khó khăn, hạn chế: Hiện nay, đa phần các bệnh viện mới dừng lại ở việc áp dụng CNTT trong thống kê, lưu trữ dữ liệu thông thường. Tại một số đơn vị việc ứng dụng còn chậm, chưa phát huy được tối đa hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành và xây dựng kế hoạch; chất lượng nguồn nhân lực chưa bắt kịp với tiến trình phát triển của các ứng dụng CNTT..
Theo Báo Vĩnh Phúc